Du Ký “Vạn lý độc hành – Một người một ngựa sắt” lang thang rong ruổi ở miền Bắc Việt Nam vào dịp cuối Thu đầu Đông .
Bài số 4 . Hành trình Lào Cai – Phố Lu – Bắc Ngầm – Bắc Hà .
Nếu có qua Hà Khẩu chơi hoặc đi lên Côn Minh – Vân Nam , ta sẽ ở lại Lào Cai dài ngày hơn nhưng bên Tàu – Trung Cộng hiện nay chưa mở cửa biên giới nên đành phải hẹn một dịp khác , không biết có còn dịp nào nữa không ?
Tạm biệt thành phố Lào Cai , lộ trình của chúng ta hôm nay là đến Bắc Hà – Cao Nguyên Trắng . Theo đường bộ sẽ có ít nhất 3 sự lựa chọn :
– Từ cửa khẩu quốc tế Lào Cai , quốc lộ 70 dẫn ta theo hướng đông nam khoảng 40km đến Ngả 3 Bắc Ngầm , từ đó quẹo trái vào tỉnh lộ 153 , leo dần lên cao , đi thêm 28km sẽ đến thị trấn Bắc Hà .
– Cũng từ cửa khẩu quốc tế Lào Cai , cũng theo quốc lộ 70 nhưng chỉ đi 10km , tới Ngả 3 Bản Phiệt , quẹo vô quốc lộ 4D , đi về phương bắc qua Mường Khương . Từ Ngả 3 Mường Khương chúng ta quẹo phải đi tiếp trên tỉnh lộ 153 ngang qua thác Hàm Rồng , Pha Long , cầu sông Chảy , Simacai , Cán Cấu , Lũng Phìn rồi cũng đến Bắc Hà .
Đi đường này chúng ta vòng lên phương bắc , sát với biên giới với Trung Cộng , sẽ dài gấp 2 lần nhưng các bạn được đi trên núi cao , nhiều đèo – dốc – thác – ghềnh , đi qua những vùng có phong cảnh núi cao vực sâu rất đẹp rất hùng vĩ của 3 huyện Mường Khương – Simacai – Bắc Hà .
– Còn con đường thứ ba tương đối mới , vẫn còn tốt và đi ven theo bờ tả ngạn sông Hồng rất đẹp , ít xe cộ giao thông . Đường này cũng đi song song với đường xe lửa , nối ga Phố Mới – Lào Cai với ga Bảo Hà nên chính thức tên là đường Phố Mới – Bảo Hà .
Đây là dịp hiếm có để mình được đi thử trên con đường mới này . Khởi hành ngay cầu Cốc Lếu , trung tâm phố . Con đường xinh đẹp bên tả ngạn sông Hồng đi xuyên qua Lào Cai bên bờ đông con sông Hồng , qua những khu phố mới được xây dựng , qua những khu dân cư đã được qui hoạch , phân lô chia nền nhưng vẫn còn thưa thớt , ít thấy nhà cửa có người ở .
Km 40 – Phố Lu . Thị trấn nhỏ bên tả ngạn sông Hồng .
Sau 6 ngày chiến đấu ác liệt , chiều tối ngày 13 tháng 2 năm 1950 , bộ đội Việt Nam hoàn toàn làm chủ trận địa , chiếm lĩnh đồn Phố Lu , tiêu diệt toàn bộ ban chỉ huy trong đó có tên đồn trưởng Pháp Gauthier .
Sau chiến thắng đồn Phố Lu , nhân dân tại địa phương rất phấn khởi vui mừng , nhiều người hăng hái đóng bè kết mảng bằng thân cây chuối , trên đó cắm cờ đỏ sao vàng kèm với thư báo tin rồi thả trôi trên sông Hồng để nhân dân miền xuôi cùng đón tin vui . Chiến thắng đồn Phố Lu đã góp phần trực tiếp để quân và dân Ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Lào Cai vào tháng 11 năm 1950 .
Gần thị trấn Phố Lu , chỉ cách vài cây số về phía tây , có khu công nghiệp Tằng Loỏng rộng mênh mông , diện tích 1.100 ha . Tại vùng này có quặng đồng rất lớn và có nhà máy sản xuất đồng kim loại từ quặng khai thác tại chỗ , duy nhất và lớn nhất Việt Nam . Không biết là tiếng của dân tộc thiểu số nào nhưng Tằng Loỏng được viết với hai chữ o !
Thêm vào đó , tại Tằng Loỏng còn rất nhiều nhà máy sản xuất hóa chất , phân bón , luyện kim , đã tạo nhiều công ăn việc làm nhưng rất tiếc chính những nhà máy này đã không xử lý rác thải đàng hoàng đúng như pháp luật bắt buộc mà đã thải vô tội vạ rất nhiều khí độc , chất lỏng độc , rác độc ra môi trường chung quanh . Đã có hiện tượng cư dân trong vùng bị nhiễm độc nặng nề và nhiều gia đình chịu không nổi nên phải dời đi nơi khác sinh sống .
Xưa kia , tại Phố Lu có cây cầu “nhất cử lưỡng tiện” , vừa dùng cho xe lửa vừa cho xe ô tô lưu thông nhưng rất chật hẹp . Có chuyện vui là mình đứng gần đầu cầu để chụp hình , thấy có hai chị đi ngược chiều , mình vui miệng chào và hỏi : “Hai chị đi chợ về đó à ?” . Hai chị cười , trả lời Vâng và một chị nói với cô bạn là : “Úi giời ơi , sao ông này nói tiếng Việt rõ thế !” . Chắc mấy chị tưởng mình là người ngoại quốc vì sao thấy đen đúa râu ria và nói tiếng Việt nhưng đối với mấy chị thì giọng này lạ quá , vì là giọng quê hương Bình Định mà !
Từ nhiều năm nay Phố Lu đã có thêm cây cầu bê tông to và rộng , bắc qua sông Hồng , chỉ cách cầu xe lửa chừng vài trăm thước về phía hạ lưu , kết nối giao thông với đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai , đi khắp nơi rất thuận tiện .
Từ Phố Lu , quốc lộ 4E đưa chúng ta về hướng đông bắc gặp quốc lộ 70 , đến Ngả 3 Bắc Ngầm .
Km 52 – Ngả 3 Bắc Ngầm . Điểm giao nhau giữa quốc lộ 70 và tỉnh lộ 153 .
Từ Bắc Ngầm , chúng ta rời quốc lộ 70 , quẹo vào tỉnh lộ 153 và bắt đầu đi từ đồng bằng leo dần lên cao . Sau vài cây số , sẽ qua cầu sông Chảy . Những lần trước đến Bắc Hà , lúc thì gặp đường đầy sương mù trên đèo dốc , lúc lại bị mưa và trời lạnh ướt át . Lần này may mắn gặp thời tiết khô ráo ấm áp . Giữa đèo gần đến Bắc Hà , có đường quẹo bên trái để đi đến chợ Cốc Ly và hang Tiên .
Km 80 – Bắc Hà . Thủ phủ của huyện cùng tên .
Một huyện thuộc vùng núi cao , từ 1.000m – 1.500m . Gần một nửa dân số là người H’ Mông ở vắt vẻo trên những triền núi cao , ngoài ra còn có người Dao , Tày , Nùng , Phù Lá . Người Việt – Kinh thuộc “dân tộc thiểu số” nơi đây !
Tên gọi Bắc Hà có từ tiếng Tày là Pạc Ha , nghĩa là “trăm bó tranh” . Người Pháp ghi trên giấy tờ văn bản là Pakha , phe ta đọc thành Bắc Hà rồi một lúc nào đó trở thành địa danh chính thức của vùng đất này .
Những lần ghé qua Bắc Hà trước đây mình đều tìm phòng trọ gần chợ cho tiện việc đi dạo bộ . Nhưng thật ra thị trấn này nho nhỏ thôi , đi dăm phút đã về chốn cũ , không nhất thiết phải ở trong phố , xa xa một tí để được đi bộ loanh quanh cũng tốt .
Lần này mình thử tìm phòng trọ xa phố một tí xem sao . Vào một khách sạn gần dinh Vua Mèo , giá phòng hơi cao và đang mùa vắng khách , còn rất nhiều phòng trống nên mình hỏi có được giảm giá không thì anh chủ trẻ , chắc ở dưới xuôi lên đây lập nghiệp , nhất định thà bỏ trống chứ không giảm giá !
Còn sớm nên nhờ vậy mà mình tiếp tục đi tìm chỗ trọ thì khám phá được một khách sạn cũng gần đó , chỉ cách dinh Vua Mèo khoảng 100m . Nhà mới xây , phòng rộng rãi sạch sẽ vệ sinh , đầy đủ tiện nghi , có cả bao lơn nhìn xuống con suối trước mặt , và giá phải chăng . Đúng là “Tái Ông thất mã” , tưởng là không thuê được phòng vừa ý nhưng lại tìm được phòng tốt hơn cả mong đợi . Phải chăng “Ở hiền gặp lành” ?
Từ năm 1985 trở về trước , tại các khu vực núi cao như Hà Giang – Lào Cai – Lai Châu – Sơn La – Nghệ An – Yên Bái – Cao Bằng , dân ta trồng khá nhiều cây Anh Túc , một loại cây có tác dụng gây nghiện như ma túy , với diện tích khá lớn . Tuy nhiên khi đó cây Anh Túc – cây thuốc phiện được trồng để làm nguyên liệu chế biến thành Morphium – thuốc giảm đau dùng trong y khoa .
Lúc đó nước Việt Nam còn là thành viên thuộc Hội đồng Tương trợ Kinh Tế – Khối SEV trong thế giới Xã hội Chủ nghĩa nên được các nước “Anh em” phân công trồng cây thuốc phiện , cung cấp mủ á phiện làm nguyên liệu để sản xuất thuốc Tây trị giảm đau .
Từ năm 1993 , chắc là có tác động mạnh từ cộng đồng quốc tế nên nước Ta vận động bà con vùng cao bỏ cây thuốc phiện , thay cho cây Anh Túc là trồng cây mận . Từ đó hằng năm vào mùa xuân , Bắc Hà tràn ngập hoa mận nở trắng núi rừng đẹp lung linh . Và cái tên Cao Nguyên Trắng có từ những rừng hoa mận nở trắng trời chứ không phải là màu trắng của ma túy bạch phiến .
Gần chợ , ngay đầu thị trấn là Đền Bắc Hà . Đền được dựng cuối thế kỷ 19 để tưởng nhớ công ơn Gia Quốc Công Vũ Văn Mật và em là Vũ Văn Uyên , người gốc Gia Lộc – Hải Dương . Nhờ hai Ông tướng này dẹp giặc , giữ gìn an ninh trật tự nên dân chúng vùng biên ải xa xôi nơi đây được sống yên ổn từ thế kỷ 16 .
Điểm thu hút hấp dẫn du khách đến đây là chợ phiên Bắc Hà , họp mỗi sáng chủ nhật . Dân cư từ khắp các vùng lân cận đều về họp chợ nơi đây nên chợ phiên này rất lớn , gồm nhiều dân tộc thiểu số , buôn bán nhiều hàng hóa sản vật địa phương . Phụ nữ có dịp diện những bộ váy đẹp nhất , đầy màu sắc , được dệt thủ công với những họa tiết lạ lẫm sinh động .
Nông sản vùng cao thường là các loại rau – củ – quả – mật ong . Ngoài ra người H’ Mông sản xuất và bán các món hàng nông cụ như cày – cuốc – xẻng – dao – kéo . Về ẩm thực thì du khách thế nào cũng thử ăn món thắng cố , được nấu từ lục phủ ngũ tạng của con ngựa và uống rượu Ngô bản Phố do người H’ Mông chưng cất bằng men Hồng Mi và được uống , không bằng ly mà bằng . . . bát !
Thắng cố là món ăn truyền thống của người Miêu – H’ Mông , có nguồn gốc từ Vân Nam bên Tàu , được du nhập về vùng Bắc Hà đã 200 năm nay . Nhiều người cho rằng tên Thắng cố có được do đọc theo âm Hán – Việt là “thang cốt” có nghĩa là “canh xương” , trước đây được nấu bằng thịt ngựa , ngày nay có thêm thịt trâu – bò – dê – heo .
Chế biến món Thắng cố tương đối đơn giản : Làm thịt sạch sẽ ngựa – trâu – bò – dê – heo , lấy lục phủ ngũ tạng ăn được chặt ra từng miến . Dùng một cái chảo to và cũ , cho tất cả thịt và nội tạng , tim gan phèo phổi vào chảo cùng lúc , để trên bếp lửa than nóng rực , rồi xào lăn theo kiểu lấy mỡ có trong thịt để xào , không thêm mỡ từ ngoài . Sau đó đổ nước vào chảo và ninh sôi sùng sục hàng tiếng đồng hồ cho nhừ . Để nồi nước dùng được ngon , đầu bếp người H’ Mông phải luôn múc từng muỗng bọt ra để nước xương thêm ngon vị đậm đà , thêm trong .
Món Thắng cố có mùi khá đặc biệt , hơi khó chịu đối với người lạ vì trong chảo Thắng Cố chứa đựng rất nhiều gia vị của núi rừng Tây Bắc .
Có thể kể một số gia vị như :
– Lá cây Thắng Cố , loại cây này mọc nhiều ở Bắc Hà .
– Mắc Khén , được coi như hạt tiêu rừng .
– Hạt Dổi , được tìm thấy nhiều ở Tây Bắc , thơm hương vị núi rừng .
– Thảo Quả , giống cây Sa Nhân , gia vị có nhiều ở Lào Cai . Còn được dùng như vị thuốc trị rối loạn tiêu hóa .
– Quế Chi , vừa là gia vị , vừa là cây dược liệu chữa bệnh phong hàn .
– Hoa Hồi , có nhiều ở Lạng Sơn , cũng dùng để nấu phở .
– Lá chanh nướng , tán nhuyễn để ướp thịt trước khi xào .
– Củ Sả .
– Củ Gừng , tác dụng để khử mùi cho Thắng Cố thịt ngựa .
Thắng Cố thường được làm vào các ngày lễ hội , lễ ăn thề bảo vệ rừng , những ngày hội của bản làng hay ở các phiên chợ Phiên .
Chợ Bắc Hà , đặc biệt còn có món phở Chua . Bánh phở không trắng mà màu hơi nâu do tráng từ gạo đỏ của xã Lũng Phình gần đó . Ngon và lạ nhờ nước dùng chua , được làm từ quá trình ngâm trộn rau cải với nước đường và chắt lọc được nước chua . Hiện nay , nước chua được làm đơn giản từ giấm hoa quả . Bánh phở mới tráng còn nóng , thịt heo xa xíu , rau sống cắt nhỏ , thêm đậu phụng và chan nước chua lên . Khi ăn nên cho thêm vài viên muối hạt . Bon Appetit !
Trời đã ngã về chiều nhưng chưa tối , dinh Vua Mèo vẫn còn mở cửa đón khách . Công trình đồ sộ này được xây dựng trong 7 năm , trên khuôn viên 4.000m2 , khánh thành năm 1921 . Dinh là nơi ở , làm việc và cũng là pháo đài phòng thủ rất kiên cố của hai cha con Thổ Ty vùng biên ải này là Hoàng Yến Chao và Hoàng A Tưởng , dân tộc Tày .
Người Tày có tục lệ đặt tên ngôi nhà theo người con ở cùng cha mẹ lúc trưởng thành . Vì thế nên công trình này được mang tên Hoàng A Tưởng . Cư dân vùng này đại đa số là người dân tộc Mèo – H’ Mông nên mặc dù chủ dinh thự là người Tày nhưng công trình này vẫn được dân gian gọi là Dinh Vua Mèo .
Quan sát kỹ ta thấy được nơi đây có sự kết hợp tài tình của kiến trúc Đông – Tây . Thầy địa lý người Trung Hoa đã tìm được thế đất rất tốt nằm trên một quả đồi , hướng đông nam và “Tựa sơn đạp thủy – tựa lưng vào núi , phía trước có suối” . Chủ nhân đã mời hai kiến trúc sư , Pháp và Trung Hoa cùng thiết kế và giám sát thi công .
Ngoài sắt – thép – xi măng và đồ trang trí nội thất xa xỉ được chở từ miền xuôi lên , những vật liệu xây dựng khác như gạch – ngói đều do những người thợ thủ công giỏi trong vùng và bên Tàu qua sản xuất trực tiếp tại chỗ .
Cũng nên được kể thêm là trong thời gian Phạm Duy cộng tác với Văn Cao để đàn ca ở phòng trà Quán Biên Thùy tại Lào Cai năm 1947 , ông thường có dịp cùng đi với Văn Cao lên vùng cao Bắc Hà thăm một người bạn của Văn Cao , chính là Thổ Ty Hoàng A Tưởng , chủ nhân của dinh thự Vua Mèo . Tới đây , ngoài việc nghe ngóng thu thập tin tức tình báo , hai chàng trai trẻ mới 25 tuổi được chiêu đãi nồng hậu , nào là tiệc tùng , nào là tiếng Khèn người Mèo , rồi hút thuốc phiện , uống rượu nồng và gái đẹp . Riêng nhạc sĩ Phạm Duy cả đời không hút xách không rượu chè không cờ bạc , nên theo luật “bù trừ” thì chắc tiết mục tình ái lăng nhăng sẽ được nhân gấp 4 lần !
Đêm ở Bắc Hà yên tĩnh , dạo bộ một vòng phố phường trong bầu không khí trong lành của vùng cao thật là thú vị . Tìm một quán nhỏ , dùng bữa tối ở khu phố gần chợ và đền Bắc Hà .
Về khách sạn thì nghe tin dự báo thời tiết là khu vực miền Bắc , bao gồm Lào Cai và Hà Giang , ngày mai có mưa lớn , vùng đồi núi có nguy cơ sạt lở cao . Lần này mình lại muốn đi thử một cung đường mới ở vùng núi cao thuộc huyện Hoàng Su Phì bên cạnh dãy Tây Côn Lĩnh hùng vĩ và cao ngất ở Hà Giang . Trong lòng có phần hơi lo lắng cho hành trình trong mưa nhưng thôi , đó là chuyện ngày mai . Bây giờ phải nghỉ ngơi cho khỏe , ngủ đủ để có sức cho hành trình “Phiêu lưu trên con đường lạ”